Doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam

  • Tác giả: Nguyễn Kiều |
  • Cập nhật: 27/03/2024 |
  • Tư vấn doanh nghiệp |
  • 198 Lượt xem
5/5 - (9 bình chọn)

Vốn và tài sản của doanh nghiệp tư nhân

Doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam không có tài sản và vốn điều lệ như các loại hình công ty khác. Doanh nghiệp tư nhân với bản chất là doanh nghiệp của một chủ sở hữu nên không có sự đầu tư góp vốn của các thành viên mà chủ doanh nghiệp tư nhân phải đầu tư toàn bộ vốn và tài sản để doanh nghiệp hoạt động kinh doanh.

– Vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân do chủ doanh nghiệp tự đăng ký. Chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ đăng ký chính xác tổng số vốn đầu tư, trong đó nêu rõ số vốn bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng và các tài sản khác; đối với vốn bằng tài sản khác còn phải ghi rõ loại tài sản, số lượng và giá trị còn lại của mỗi loại tài sản. Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư và phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán. Trường hợp giảm vốn đầu tư xuống thấp hơn vốn đầu tư đã đăng ký thì chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ được giảm vốn sau khi đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh. 

– Ngoài vốn đầu tư thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp tư nhân thì chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền huy động vốn bằng những nguồn vốn vay khác. Toàn bộ vốn và tài sản, kể cả vốn vay và tài sản thuê được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp. 

– Chủ doanh nghiệp tư nhân phải tổ chức công tác kế toán trung thực, chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về kế toán, thống kê; kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.

– Doanh nghiệp tư nhân phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp vì đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là “doanh nghiệp” được thành lập theo quy định của pháp luật, bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân. Mặt khác, chủ doanh nghiệp tư nhân với tư cách là một cá nhân kinh doanh sẽ có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân đối với các khoản thu nhập khác ngoài thu nhập tại doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân. 

Tổ chức, quản lý doanh nghiệp tư nhân

Luật Doanh nghiệp không quy định về mô hình tổ chức quản lý doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền quyết định mô hình, bộ máy tổ chức quản lý doanh nghiệp tư nhân. Luật Doanh nghiệp chỉ xác định chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp.

Như vậy, chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân trực tiếp làm Giám đốc doanh nghiệp tư nhân thì chính chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 

Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ giao kết hợp đồng thuê Giám đốc với người được thuê. Thực chất, mối quan hệ thuê người khác quản lý điều hành doanh nghiệp tư nhân chính là quan hệ ủy quyền. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần phải phân định trách nhiệm khi người được thuê làm Giám đốc doanh nghiệp tư nhân thực hiện quản lý điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân vượt quá phạm vi trong hợp đồng thuê Giám đốc. Về nguyên tắc, chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp, nhưng người được thuê làm Giám đốc doanh nghiệp tư nhân khi vượt quá phạm vi quyền hạn nhiệm vụ trong hợp đồng thuê Giám đốc doanh nghiệp tư nhân sẽ phải chịu trách nhiệm như trường hợp vượt quá phạm vi đại diện theo nguyên tắc chung tại Bộ luật Dân sự. Theo đó thì giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối; nếu không được sự đồng ý của người được đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện. Tuy nhiên,quy định tại khoản 2 Điều 185 Luật Doanh nghiệp năm 2014 có thể dẫn đến cách hiểu là trong mọi trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, trách nhiệm trước pháp luật của chủ doanh nghiệp tư nhân, người được thuê làm Giám đốc doanh nghiệp tư nhân với các bên liên quan cần được quy định cụ thể rõ ràng hơn trong các quy định của pháp luật và hợp đồng thuê Giám đốc. 

Chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân

Doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn theo quyết định của chủ doanh nghiệp tư nhân nếu đủ các điều kiện sau đây: 

– Có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Doanh nghiệp năm 2014: 

Ngành nghề đăng ký kinh doanh không bị cấm đầu tư kinh doanh. 

Tên của doanh nghiệp được đặt theo đúng quy định tại các Điều 38, 39, 40 và 42 Luật Doanh nghiệp. 

Có hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ. 

Nộp đủ lệ phí đăng ký doanh nghiệp theo quy định pháp luật về phí và lệ phí. – Chủ doanh nghiệp tư nhân phải là chủ sở hữu công ty (đối với trường hợp chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu) hoặc thành viên (đối với trường hợp chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên); 

– Chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản chịu trách nhiệm cá nhân bằng toàn bộ tài sản của mình đối với tất cả các khoản nợ chưa thanh toán của doanh nghiệp tư nhân và cam kết thanh toán đủ số nợ khi đến hạn; 

– Chủ doanh nghiệp tư nhân có thỏa thuận bằng văn bản với các bên của hợp đồng chưa thanh lý về việc công ty trách nhiệm hữu hạn được chuyển đổi tiếp nhận và thực hiện các hợp đồng đó; 

– Chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản hoặc có thỏa thuận bằng văn bản với các thành viên góp vốn khác về việc tiếp nhận và sử dụng lao động hiện có của doanh nghiệp tư nhân. 

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ, Cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp nếu có đủ các điều kiện quy định trên. 

Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp quy định tại khoản 2 Điều này, Cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo cho các cơ quan nhà nước có liên quan theo quy định tại khoản 1 Điều 34 của Luật này; đồng thời cập nhật tình trạng pháp lý của doanh nghiệp trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. 

– So với Luật Doanh nghiệp năm 2005 không quy định về chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thì Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã mở rộng quyền chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 2014 mới chỉ ghi nhận doanh nghiệp tư nhân được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn mà chưa được chuyển đổi trực tiếp từ doanh nghiệp tư nhân thành công ty cổ phần. Vì vậy, nếu muốn chuyển đổi thành công ty cổ phần thì doanh nghiệp tư nhân phải chuyển qua hai bước: từ doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn; sau đó chuyển từ công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần. 

Bán và cho thuê doanh nghiệp tư nhân

Quyền bán, cho thuê doanh nghiệp tư nhân là những quyền năng thể hiện rõ nét sự định đoạt cao về số phận pháp lý doanh nghiệp của chủ doanh nghiệp tư nhân so với các chủ sở hữu công ty. . 

Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê doanh nghiệp tư nhân 

Bản chất của quan hệ cho thuê doanh nghiệp không làm thay đổi quyền sở hữu doanh nghiệp tư nhân mà chỉ làm thay đổi quyền quản lý, sử dụng doanh nghiệp tư nhân cho người khác và chủ doanh nghiệp tư nhân được thu về một số tiền từ việc cho thuê doanh nghiệp. Việc cho thuê doanh nghiệp tư nhân được thiết lập bằng hợp đồng giữa chủ doanh nghiệp tư nhân và người thuê doanh nghiệp; thực hiện thủ tục thông báo việc cho thuê doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh. Cụ thể: 

Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình nhưng phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao hợp đồng cho thuê có công chứng đến cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày hợp đồng cho thuê có hiệu lực thi hành. 

Trong thời hạn cho thuê, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp. Quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và người thuế đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được quy định trong hợp đồng cho thuê. 

Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp tư nhân 

Bản chất của việc bán doanh nghiệp tư nhân chính là việc chủ doanh nghiệp tư nhân chuyển nhượng vốn đầu tư của mình vào doanh nghiệp tư nhân cho người khác cùng với việc chuyển giao quyền sở hữu doanh nghiệp tư nhân. Việc bán doanh nghiệp tư nhân được thiết lập bằng hợp đồng giữa chủ doanh nghiệp tư nhân và người mua doanh nghiệp; thực hiện thủ tục thay đổi chủ sở hữu doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh. Cụ thể: B Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác. Sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp phát sinh trong thời gian trước ngày chuyển giao doanh nghiệp, trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thỏa thuận khác. Người bán, người mua doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định về pháp luật lao động. Người mua doanh nghiệp phải đăng ký thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

Phòng tránh rủi ro pháp lý trong hoạt động của doanh nghiệp tư nhân

Khái niệm rủi ro pháp lý và các loại rủi ro pháp lý 

Rủi ro pháp lý là những sự kiện xảy ra bất ngờ gây thiệt hại cho doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp. Rủi ro pháp lý thường có phạm vi rất rộng. Trong quá trình hoạt động của mình, doanh nghiệp tham gia vào rất nhiều mối quan hệ, do đó rủi ro có thể đến từ rất nhiều mối quan hệ của doanh nghiệp. Rủi ro pháp lý có thể xảy ra trong nhiều lĩnh vực như rủi ro về tài chính, rủi ro về tổ chức quản lý doanh nghiệp, rủi ro về nhân lực, rủi ro về hợp đồng… 

Rủi ro pháp lý được phân loại dựa trên các tiêu chí cơ bản sau: 

– Căn cứ vào tác động của rủi ro đối với doanh nghiệp, rủi ro pháp lý được chia thành rủi ro cao và rủi ro thấp. 

– Xét về nguồn gốc rủi ro, người ta phân loại rủi ro pháp lý thành rủi ro có nguồn gốc bên trong và rủi ro có nguồn gốc bên ngoài. | Rủi ro pháp lý bên trong là rủi ro tác động trực tiếp đến hoạt động nội bộ của doanh nghiệp trong đó có rủi ro về tổ chức quản lý, rủi ro tài chính, rủi ro nhân lực. Rủi ro bên ngoài là những rủi ro tác động tới các mối quan hệ bên ngoài doanh nghiệp. THẾ – Xét theo nguyên nhân dẫn đến rủi ro, rủi ro pháp lý bao gồm: rủi ro do nguyên nhân khách quan và rủi ro do nguyên nhân chủ quan. Rủi ro pháp lý do nguyên nhân chủ quan do con người gây ra trong quản lý doanh nghiệp (yếu tố văn hóa, thói quen hành xử, thiếu kiến thức chuyên môn…). Rủi ro pháp lý khách quan là những rủi ro không thuộc sự kiểm soát của chủ sở hữu và người quản lý doanh nghiệp (do sự kiện bất khả kháng, do thay đổi chính sách pháp luật, do thay đổi của thị trường…). 

Mức độ thiệt hại do rủi ro pháp lý gây ra khó xác định bởi vì khi rủi ro pháp lý xảy ra, doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu các hậu quả khác nhau. Mức độ thiệt hại do rủi ro pháp lý gây ra thường không thể xác định ngay và doanh nghiệp cũng khó có thể tự đánh giá được. Chủ sở hữu doanh nghiệp phải « trả giá » bằng những tổn thất về tài sản, bị mất thị phần, phá sản thậm chí có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, chủ sở hữu doanh nghiệp cần phải nhận diện và đánh giá đầy đủ từng rủi ro pháp lý để ngăn ngừa, kiểm soát các rủi ro pháp lý. 

Rủi ro pháp lý trong tổ chức quản lý doanh nghiệp 

Rủi ro pháp lý trong tổ chức quản lý doanh nghiệp là một loại rủi ro pháp lý liên quan trực tiếp đến hoạt động tổ chức quản lý doanh nghiệp (ra các quyết định quản lý) có khả năng hoặc đã làm cho doanh nghiệp bị thiệt hại về mặt lợi ích. Rủi ro pháp lý trong tổ chức quản lý doanh nghiệp bắt nguồn từ tranh chấp, xung đột, vi phạm cơ bản sau: 

(i) Bất đồng giữa những người chủ sở hữu doanh nghiệp với người được thuê quản lý doanh nghiệp (trong trường hợp chủ sở hữu doanh nghiệp thuê người quản lý doanh nghiệp); 

(ii) Tranh chấp về quyền lợi giữa những người chủ sở hữu doanh nghiệp với nhau; 

(iii) Người được thuê quản lý doanh nghiệp, chủ sở hữu doanh nghiệp không tuân thủ pháp luật và Điều lệ doanh nghiệp do trình độ nhận thức hạn chế hoặc cố tình vi phạm pháp luật và Điều lệ doanh nghiệp vì lợi ích riêng của mình. 

Rủi ro pháp lý trong tổ chức quản lý doanh nghiệp tư nhân 

Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân thành lập và làm chủ nên chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định quản trị doanh nghiệp, quyết định tổ chức quản lý doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp điều hành doanh nghiệp hoặc thuê người khác về quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (gọi chung là quản lý doanh nghiệp). Như vậy, trong doanh nghiệp tư nhân không có sự phân chia quyền lực quản lý doanh nghiệp vì người được chủ doanh nghiệp tư nhân thuế quản lý thực chất cũng chỉ là người “làm thuê” cho chủ doanh nghiệp tư nhân và chỉ được quản lý doanh nghiệp tư nhân trong phạm vi được chủ doanh nghiệp tư nhân ủy quyền. 

– Trong trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân trực tiếp quản lý doanh nghiệp thì sẽ không tồn tại rủi ro phát sinh từ chủ sở hữu doanh nghiệp và người quản lý doanh nghiệp nhưng vẫn phát sinh những rủi ro trong việc ra các quyết định quản lý của chủ doanh nghiệp tư nhân do yếu kém về năng lực quản lý hoặc thiếu ý thức tuân thủ pháp luật.

– Trong trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân thuê người quản lý doanh nghiệp thì sẽ phải tính đến việc phòng ngừa rủi ro trong tổ chức quản lý doanh nghiệp do hoạt động quản lý doanh nghiệp của người được chủ doanh nghiệp tư nhân thuê. Có thể chia thành hai loại rủi ro chủ yếu sau: 

+ Rủi ro do người được thuê quản lý doanh nghiệp tư nhân vượt quá phạm vi quản lý được chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân ủy quyền; 

+ Rủi ro do người được thuê quản lý doanh nghiệp tư nhân cố ý xâm phạm lợi ích của chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân. 

Các rủi ro trên có thể do người được thuê quản lý doanh nghiệp tự nhân không có năng lực về quản lý doanh nghiệp. Trường hợp này người được thuê quản lý doanh nghiệp tư nhân không có mâu thuẫn, xung đột lợi ích với chủ doanh nghiệp tư nhân nhưng do năng lực quản lý có hạn nên gây rủi ro cho chủ doanh nghiệp tư nhân. Rủi ro trên cũng có thể bắt nguồn từ sự chủ quan và không có ý thức tuân thủ các thỏa thuận trong hợp đồng thuê quản lý doanh nghiệp hoặc bắt nguồn từ sự cố ý của người được thuế quản lý doanh nghiệp tư nhân nhằm toan tính xâm phạm, trục lợi bất hợp pháp tài sản lợi ích của chủ doanh nghiệp tư nhân. 

Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro pháp lý về tổ chức quản lý doanh nghiệp tư nhân 

Thứ nhất: Tuân thủ các quy định pháp luật về tổ chức quản lý doanh nghiệp 

Trong những văn bản pháp luật đều có các quy định về những điều doanh nghiệp tư nhân được làm, những việc doanh nghiệp tự nhân không được làm hoặc cấm làm; những việc được làm đi cùng với các điều kiện, quyền lựa chọn, thời gian văn bản pháp luật về việc cấm làm có hiệu lực… Để kiểm soát rủi ro pháp lý về việc tổ chức quản lý doanh nghiệp trong việc ra các quyết định quản lý, chủ sở hữu doanh nghiệp và người quản lý doanh nghiệp cần rà soát các quy định pháp luật để tránh thực hiện những việc luật cấm; đối với trường hợp luật cho phép được làm kèm theo các điều kiện doanh nghiệp cần đánh giá doanh nghiệp mình đã đáp ứng đúng và đầy đủ các điều kiện theo quy định chưa, nếu không đáp ứng được điều kiện luật quy định thì không nên làm. 

Thứ hai: Sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý hoặc đề nghị sự hỗ trợ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền 

Ngoài Luật Doanh nghiệp năm 2014, các quy định pháp luật về tổ chức quản lý doanh nghiệp tư nhân còn rải rác ở nhiều văn bản khác như Bộ luật Dân sự, các nghị định hướng dẫn Luật Doanh nghiệp. Ngoài ra, việc ra quyết định đầu tư kinh doanh trong từng lĩnh vực cụ thể có thể chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành. Các văn bản pháp luật đó có thể dẫn đến những cách hiểu khác nhau. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chưa thực sự hiểu chắc chắn về một điều luật liên quan đến quản lý doanh nghiệp mà “mạo hiểm” đưa ra các quyết định quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động đó theo quan điểm và cách thức nhìn nhận của mình thì doanh nghiệp sẽ có nguy cơ phải gánh chịu rủi ro pháp lý từ các quyết định này.

Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro, chủ sở hữu doanh nghiệp có thể chọn cách gửi văn bản đề nghị cơ quan quản lý nhà nước hướng dẫn cho vụ việc của mình. Sau khi có được hướng dẫn chính thức bằng văn bản, doanh nghiệp có thể thực hiện giao dịch hoặc ý tưởng kinh doanh của mình. Hoặc cách thứ hai là chủ sở hữu doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ tư vấn pháp luật có uy tín để hỗ trợ cho việc ra quyết định quản lý doanh nghiệp chính xác, an toàn. 

Thứ ba: Thành lập bộ phận pháp chế của doanh nghiệp 

Cách thứ ba này áp dụng với những doanh nghiệp tư nhân có quy mô kinh doanh lớn. Doanh nghiệp tư nhân có quy mô càng lớn thì khả năng kiểm soát rủi ro pháp lý càng khó bởi vì những doanh nghiệp này thường có nhiều ngành nghề kinh doanh, sử dụng nhiều lao động, được tổ chức thành nhiều phòng ban, bộ phận ở nhiều cấp độ và có thể thuê nhiều người quản lý doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể lựa chọn sử dụng dịch vụ pháp lý từ các công ty luật chuyên nghiệp với đội ngũ luật sư với chuyên môn sâu và giàu kinh nghiệm, đáp ứng được khối lượng công việc lớn trong một thời gian ngắn… Nhưng cũng có thể, để chủ động hơn trong công việc, chủ doanh nghiệp tư nhân có thể thành lập bộ phận pháp chế chuyên nghiệp, am hiểu kỹ càng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để tư vấn cho chủ doanh nghiệp tư nhân và những người quản lý doanh nghiệp giảm thiểu những rủi ro phát sinh từ hoạt động tổ chức quản lý doanh nghiệp. 

Thứ tư: Thỏa thuận chặt chẽ các điều khoản của hợp đồng thuê người quản lý và kiểm tra, giám sát thường xuyên hoạt động quản lý của người được thuê quản lý doanh nghiệp tư nhân

Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể thuê người quản lý doanh nghiệp tư nhân, quan hệ này phải được thiết lập bằng hình thức pháp lý là hợp đồng. Luật Doanh nghiệp không quy định về nội dung của hợp đồng này. Xét về bản chất, hợp đồng thuê người quản lý doanh nghiệp tư nhân là một dạng hợp đồng dịch vụ thực hiện công việc có ủy quyền và được hưởng thù lao. Từ hợp đồng đó, việc quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân sẽ giao cho người khác. Người được thuê quản lý doanh nghiệp tự nhân có thể trục lợi cho họ hoặc do chủ quan, do hạn chế trong việc vận dụng pháp luật gây tổn thất, xâm phạm về lợi ích cho chủ doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, trước pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn là chủ sở hữu doanh nghiệp nên trách nhiệm của chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn bị ràng buộc trước cơ quan có thẩm quyền, trước các chủ thể có liên quan đến doanh nghiệp tư nhân. 

Vì vậy, trước hết, chủ doanh nghiệp tư nhân và người được thuê quản lý điều hành phải thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng thuê người tổ chức quản lý doanh nghiệp tư nhân về những nội dung quan trọng sau: 

– Phạm vi công việc được thuê quản lý;

– Thời hạn được thuê quản lý; 

– Trách nhiệm cụ thể khi vượt quá phạm vi công việc được thuê quản lý; 

– Trách nhiệm của các bên đối với bên thứ ba khi người được thuê quản lý vượt quá phạm vi công việc và thời hạn được thuê quản 

lý; 

– Trách nhiệm và miễn trừ trách nhiệm của các bên về những trường hợp bất khả kháng; 

– Trách nhiệm, nghĩa vụ người được thuê quản lý phải bảo mật thông tin, bí mật kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân trong và sau quá trình được thuê quản lý doanh nghiệp. 

Những nguyên lý chung về hợp đồng thuê quản lý doanh nghiệp, quyền và nghĩa vụ của các bên được vận dụng theo quy định về đại diện tại chương IX; Điều 562 đến Điều 569 Bộ luật Dân sự năm 2015 và thỏa thuận cụ thể của các bên trong quan hệ thuê người quản lý doanh nghiệp tư nhân. 

Bên cạnh đó, tiếp theo, chủ doanh nghiệp tư nhân phải thiết lập thủ tục kiểm soát hoạt động quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của người được thuê quản lý doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân kiểm tra phạm vi công việc người được thuê quản lý đã đang thực hiện thông qua kiểm tra các hợp đồng mà họ giao kết; kiểm tra hệ thống kế toán của doanh nghiệp để đưa ra các hướng xử lý khác nhau nhằm ngăn ngừa hoặc phát hiện, xử lý kịp thời những rủi ro về tổ chức, quản lý doanh nghiệp tư nhân. 

->>>>> Tham khảo thêm: Thành lập doanh nghiệp

5/5 - (9 bình chọn)